Nghệ thuật sơn mài xuất hiện tại Việt Nam từ rất sớm, các tác phẩm sơn mài được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ ở Việt Nam có niên đại từ thế kỷ III đến thế kỷ IV trước Công nguyên. Vào thời Đinh (930-950), dân Việt đã biết sử dụng mủ cây sơn để trét thuyền. Lần lượt qua các triều đại Lê, Lý, Trần, nhiều cổ vật, pho tượng gỗ hay đất được sơn son thếp vàng vẫn còn được lưu giữ. Qua nhiều thế kỷ, các nghệ sĩ và nghệ nhân bậc thầy của Việt Nam đã nắm vững kỹ thuật sử dụng sơn mài cho mục đích trang trí và bảo quản. Tranh sơn mài có phong cách độc đáo, khác biệt với tranh lụa, sơn dầu hay màu nước.
Đến đời vua Lê Nhân Tông (1443-1460), Trần Thượng Công mới được tôn là bậc thầy đầu tiên của ngành nghề này. Các học trò của cụ đã lập phường thợ tỏa đi khắp nơi, những người thợ giỏi được triều đình nhận vào nội phủ để trang trí nội thất trong cung điện. Hiện nay Huế được xem là nơi mà những vết tích và tác phẩm sơn mài còn được bảo lưu một cách quy mô và đầy đủ nhất.
Nhưng để thể hiện rõ ràng hơn trong nghệ thuật thì sơn mài được chính thức du nhập vào Việt Nam từ thập kỷ 30 của thế kỷ 20 thông qua trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ngôi trường đã sản sinh được rất nhiều nghệ sĩ sơn mài nổi tiếng trong và ngoài nước. Trải qua thời gian dài phát triển, sơn mài Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao.
Đặc điểm nghệ thuật
Sơn mài truyền thống có ba màu – nâu, đen và đỏ son. Đến những năm 1930, các nghệ sĩ bắt đầu sử dụng một kỹ thuật mới được gọi là đục đẽo, mang lại sự pha trộn màu sắc phong phú hơn và tăng thêm cảm giác về kích thước và khoảng cách.
Bức tranh được thực hiện trên gỗ. Nó được phủ bởi một mảnh vải được phết nhựa cây sơn mài và sau đó phủ một lớp nhựa cây trộn với đất. Tấm ván sau đó được đóng giấy cát và tráng lại bằng một lớp nhựa cây nóng. Sau khi đánh bóng, nó tạo ra một bề mặt đen mịn với ánh sáng rực rỡ. Họa sĩ sử dụng sơn mài nóng để vẽ phác thảo và các màu sắc được phủ lên từng lớp từng lớp một sau khi lớp bên dưới đã khô.
Các công đoạn hoàn thiện bao gồm đánh bóng và rửa lại bức tranh. Quá trình này nghe thì có vẻ là một sự đối xử tàn bạo với tác phẩm nghệ thuật, nhưng thực chất nó được thực hiện rất tỉ mẩn. Thành quả có được là một bức tranh rực rỡ.
Qua nhiều năm thử nghiệm, các nghệ nhân sử dụng thêm các chất khác liệu khác như tro thực vật, vỏ trứng nghiền, vàng và bạc để tô điểm cho tác phẩm của họ. Những chất liệu này này giúp các nghệ sĩ hiện đại thể hiện cái tôi và tiếp thêm sự sáng tạo và cá tính về phong cách cho các tác phẩm nghệ thuật của họ.
Lịch sử tranh sơn mài ở Việt Nam
Nghệ thuật sơn mài đã xuất hiện tại Việt Nam từ thế kỷ III đến thế kỷ IV trước Công nguyên nhưng chỉ thực sự được phổ biến vào Việt Nam một cách bài bản và chuyên nghiệp qua khóa học nghệ thuật sơn mài do Joseph Inguimberty, một giảng viên tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương giảng dạy vào năm 1927. Việc ông đưa nghệ thuật sơn mài vào chương trình giảng dạy mỹ thuật bắt đầu từ năm 1937. Mặc dù các khóa đào tạo theo chương trình tương tự như các trường mỹ thuật ở châu Âu, các nghệ sĩ Việt Nam đã thành công trong việc đưa hơi thở Việt và phong cách cá nhân của họ vào các tác phẩm nghệ thuật.
Người yêu nghệ thuật Việt Nam luôn tự hào vì đã có những họa sĩ tài danh đưa không ngừng phát triển dòng tranh sơn mài. Các tác phẩm mỹ thuật hiện đại Việt Nam như: Ngựa Gióng của Nguyễn Tư Nghiêm; Bình phong của Nguyễn Gia Trí; Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của Nguyễn Sáng và rất nhiều tác giả tác phẩm khác đã tạo dựng nên hình hài của sơn mài Việt Nam trong nền nghệ thuật hiện đại của thế giới thế kỷ XX.
Các họa sĩ sơn mài nổi tiếng Việt Nam
Một số họa sĩ từng theo học bộ môn Sơn mài tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã trở nên rất nổi tiếng, như Nguyễn Gia Trí. Các họa sĩ sơn mài tên tuổi khác của thời này bao gồm: Công Văn Trung, Phạm Hà, Nguyễn Hằng, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đức Sung, Nguyễn Văn Tý, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Văn Bình, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sỹ Ngọc, Trần Đình Thọ, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Thúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Kim Đồng, Lê Quốc Lộc, Đặng Tin Tưởng.
Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ hàng đầu của làng tranh Sơn mài Việt Nam, đặc biệt là trong những năm 1938 đến 1944. Tranh sơn mài ở thời kỳ đỉnh cao. Tác phẩm của ông được tạo ra một cách cẩn thận và có vẻ đẹp kỳ diệu. Thông qua các lớp màu và quá trình sơn mài, Nguyễn Gia Trí đã thử nghiệm những màu sắc mới như màu vàng sáng tạo vẻ ngoài như nhung, và nhiều chất liệu khác nhau như vỏ trứng và đá quý.
Nguyên Khang, sinh ra tại Hà Nội, ông sở hữu rất nhiều tác phẩm sơn mài nổi tiếng tại Việt Nam. Nguyễn Khang là một trong những thành viên sáng lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp tại Việt Nam và là Hiệu trưởng của trường này từ năm 1962-1974. Nguyên Khang cũng là một trong những người góp công lớn trong việc sáng tạo và phát triển dòng tranh sơn mài tại Việt Nam bằng cách đưa những chất liệu đa dạng vào tranh.
Hoàng Tích Chu, quê ở Hà Bắc, chuyên vẽ tranh sơn mài. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam. Mặc dù ông sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm nghệ thuật đồ họa và dầu, ông vẫn nổi tiếng với nghệ thuật sơn mài và sau đó được giảng dạy tại trường Cao đẳng. Tranh của ông được trưng bày trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Phương Đông Moscow và các bộ sưu tập tư nhân khác.
Huỳnh Văn Gấm sinh ra tại huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Ông tốt nghiệp trường trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1945. Năm 1944, ông đoạt giải Salon Unique khi còn đang theo học tại trường, đến năm 2000, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật cách mạng của ông đã có tác động rất lớn đến nền mỹ thuật Việt Nam trong thời gian đó. Huỳnh Văn Gấm cũng là Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ đầu tiên tại Việt Nam.
Đặng Tín Tường sinh ra tại Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh là một nghệ sĩ tự học chỉ với một số khóa học đồ họa tại Học viện Mỹ thuật Hà Nội. Ông đã từng làm việc tại Ban Giáo trình của Viện Mỹ thuật Hà Nội, sau đó từ năm 1984 ông làm việc tại các Xưởng Mỹ thuật Quốc gia thuộc Bộ Văn hóa. Ông nổi tiếng trong các bức tranh sơn mài và lụa, cũng như vẽ acrylic và màu nước trên giấy “do”. Các tác phẩm của ông được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Nhà khách Chính phủ Việt Nam và Bảo tàng Dân tộc Miami ở Mỹ.